Hotline 1: 0944945339      Hotline 2: 0931067020     
Danh mục sản phẩm
Tấm lọc bụi, lọc khí - khung lọc khí
Lọc phòng sơn
Bông lọc bụi
Vải lọc chất lỏng
Vải lọc bụi, lọc khí
Lọc HEPA
Housing lọc chất lỏng
Túi lọc khí
Lõi lọc chất lỏng
Giấy lọc dầu công nghiệp
Vải lọc dầu công nghiệp
Vải lọc cho máy ép bùn khung bản
Bình lọc túi và bình lọc lõi
Lưới lọc sơn
Lưới lọc keo, lưới lọc nước
Vải lọc khung bản
Lọc Kowa
Bình lọc chất lỏng
Túi Lọc chất lỏng
Lõi lọc bụi
Túi lọc bụi công nghiệp
Lưới INOX, lưới chống chim, lưới chống côn trùng
Lọc HEPA - lọc khí phòng sạch
Lưới lọc bụi
 
Hỗ trợ khách hàng
KT kinh Doanh SP lọc
Lich Nguyen: 0944 945 339
NV Kinh Doanh lưới thép
Luan Nguyen: 0931067020
 
Trang chủ » Tin tức
Giải bài toán nước sạch ở TP Hồ Chí Minh

Tình hình cung cấp nước sạch ở TP Hồ Chí Minh vài năm gần đây đã được cải thiện đáng kể, nhưng tỷ lệ hộ dân được cấp nước sạch qua hệ thống cấp nước của Tổng Công ty cấp nước Sài Gòn mới đạt khoảng 84,3%. Ở nhiều khu vực cuối nguồn, người dân vẫn phải chịu cảnh thiếu nước.


Chạy đua với dân số tăng

 
Có thể nói việc cung cấp nước và nhu cầu sử dụng nước sạch ở TP Hồ Chí Minh diễn ra như một cuộc chạy đua quyết liệt giữa việc phát triển nguồn nước sạch và quá trình đô thị hóa ở khu vực quận mới. Ở khu vực các quận nội thành cũ, dân số tăng lên đáng kể. Hai yếu tố này làm cho nhu cầu tiêu thụ nước tăng lên nhanh chóng. Năm 2001, chỉ cần 1.250.000 m3 nước/ngày là có thể đáp ứng được nhu cầu sử dụng của người dân, với các nhà máy như: Thủ Đức, Bình An và vài cơ sở khai thác nước ngầm cung cấp 847.000 m3/ ngày. Năm năm sau (2005), khi thành phố có thêm nguồn nước sạch mới từ Nhà máy nước Tân Hiệp, công suất cấp nước đã đạt tới 1.013.300 m3/ngày nhưng vẫn chỉ đáp ứng 85,34% số hộ dân.
 
Quả thật, ở một thành phố có hơn bảy triệu dân với nhiều quận mới đang được đô thị hóa nhanh chóng thì việc cung cấp đủ nước sạch không phải là điều dễ dàng. Phải mất hơn mười năm với nhiều dự án đầu tư xây dựng và cải tạo nguồn nước, đến nay TP Hồ Chí Minh mới có được sáu nhà máy nước là: Thủ Đức, Tân Hiệp, Trung An, Bình An, Tân Bình, BOO Thủ Đức với tổng công suất 1.350.000 m3/ngày. Nếu ở vào những năm đầu thế kỷ 21, với công suất này, nguồn nước sạch không những thỏa mãn nhu cầu người dân mà còn dư tới 100.000 m3/ngày. Nhưng đến nay trên thực tế nguồn nước này chỉ đáp ứng được 84,3% số hộ dân.
 
Một nguyên nhân quan trọng làm cho cuộc chạy đua giữa cung và cầu luôn ở tình trạng không cân sức là do hệ thống truyền dẫn, phân phối nước phát triển quá chậm. Hệ thống này được xây dựng qua nhiều thời kỳ, đan xen giữa cũ và mới, chủ yếu phục vụ khu vực nội thành cũ, chưa theo kịp quá trình đô thị hóa và chưa đủ khả năng tiếp nhận các nguồn nước mới. Nhận rõ điểm yếu này, mấy năm gần đây ngành cấp nước cho triển khai hàng trăm dự án phát triển mạng lưới nhằm đưa nước sạch về khu vực phía Tây và Tây Nam thành phố như các quận: Tân Bình, Tân Phú, Bình Tân, 12, Gò Vấp và huyện Bình Chánh, vốn được coi là vùng "trắng" nước sạch. Mấy năm gần đây, khi quá trình đô thị hóa hướng về khu vực phía Đông và Đông Nam thành phố thì tình trạng thiếu nước ở đây diễn ra khá trầm trọng. Một loạt dự án xây dựng đường ống bắt đầu tập trung cho khu vực này. Riêng năm 2009, có tới 26 dự án phát triển thêm 32.645 m đường ống truyền dẫn cấp 1 và 2; 109 dự án với 265.474 m đường ống phân phối cấp 3; 56 dự án cải tạo gần 74.000 m đường ống các cấp 1, 2, 3. Đến nay, chiều dài các tuyến ống cấp nước trên địa bàn thành phố lên đến hơn 4.000 km, tăng hơn 1.000 km so với năm 2005.
 
Tuy nhiên, mạng truyền dẫn cấp 1 và 2 ở một số khu vực vẫn còn yếu. Một số khu vực, nhất là ở phía Đông như các quận: 7, 8, Nhà Bè, hoặc các phường: Hiệp Bình Chánh (quận Thủ Đức), 5, 6, 7, 11, 12, 13, 14, 22 (quận Bình Thạnh), 1 (quận Gò Vấp), 1, 2, 3 (quận 8)... nước chảy rất yếu hoặc gần như không chảy. Một số địa bàn khác như: quận 12, huyện Hóc Môn và huyện Củ Chi, mạng cấp nước còn rất sơ khai hoặc chưa có. Riêng huyện Cần Giờ, người dân vẫn phải sử dụng nước sạch không phải bằng tuyến ống mà được chở đến bằng những chiếc xà-lan từ trung tâm thành phố.
 
Sự yếu kém của hệ thống truyền dẫn và phân phối phần nào làm hạn chế các nhà máy nước phát huy công suất. Bằng chứng là, đầu tháng 6 vừa qua, Nhà máy nước BOO Thủ Đức (công suất thiết kế 300.000 m3 nước/ngày) đã phát nước đợt hai đưa công suất từ 110.892 m3 nước/ngày (đợt 1) lên khoảng 190.000 m3/ngày. Mặc dù áp lực nước ở một số nơi như các phường: 1, 2, 3 (quận 8) và khu vực quận 7 đã được cải thiện đáng kể nhưng do chưa kịp phát triển các tuyến truyền dẫn cấp 1, 2 nên trên thực tế, Nhà máy nước BOO Thủ Đức vẫn phải phát nước cầm chừng và nhiều nơi vẫn chưa được hưởng nguồn nước mới này. Đây là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự cách biệt về chất lượng sống ở các khu vực khác nhau trong thành phố. Theo khảo sát của Tổng Công ty cấp nước Sài Gòn, tỷ lệ hộ dân được cấp nước sạch ở khu vực nội thành cũ là gần 95%, ở khu vực nội thành mới là gần 80%, trong khi đó ở khu vực vùng ven và ngoại thành chỉ mới đạt hơn 50%. Thậm chí, đến nay phần lớn người dân huyện Hóc Môn và toàn bộ huyện Củ Chi vẫn phải sử dụng nước ngầm từ các giếng khoan do chương trình cấp nước nông thôn cung cấp.
 
Nâng cao chất lượng dịch vụ nước sạch

 
Mục tiêu hàng đầu của ngành cấp nước TP Hồ Chí Minh trong những năm tới là nâng cao chất lượng dịch vụ nước sạch với hai nhiệm vụ chính là đáp ứng nhu cầu sử dụng nước sạch của người dân và bảo đảm tiêu chuẩn chất lượng nước sạch.
 
Trước mắt, Tổng Công ty cấp nước Sài Gòn tập trung năng lực đẩy nhanh các dự án trọng điểm về xây dựng các tuyến ống, giải quyết vấn đề thiếu nước cho các khu vực cuối nguồn. Năm 2010, Tổng Công ty tiếp tục phát triển thêm 120 km đường ống truyền dẫn cấp 1, 2 và hơn 300 km đường ống phân phối cấp 3 ở phía đông thành phố để nâng cao khả năng tiếp nhận nguồn nước từ Nhà máy nước BOO Thủ Đức, cải thiện cơ bản tình trạng thiếu nước ở quận 7 và huyện Nhà Bè. Mặt khác, nhiều dự án xây dựng mạng truyền dẫn cấp 1, 2 khác cũng đang được triển khai thực hiện nhằm chuẩn bị tiếp nhận nguồn nước sạch mới (đợt đầu 150.000 m3 nước/ngày) từ Nhà máy nước Kênh Đông (công suất thiết kế 200.000 m3 nước/ngày) vào năm 2011. Bên cạnh đó, một số giải pháp tình thế như: điều tiết, điều phối lượng nước hoặc lắp đặt bơm tăng áp cũng đang được triển khai nhằm tăng áp lực nước cho các khu vực thiếu nước, nước yếu, cuối nguồn như các phường: Phú Mỹ, Bình Thuận (quận 7); 5, 11, 13, 22 (quận Bình Thạnh); 1, 2, 3 (quận 8) và huyện Nhà Bè. Đặc biệt, vào quý I-2010, thành phố đã khởi công xây dựng hệ thống cấp nước sạch cho huyện Cần Giờ. Dự kiến đến cuối năm nay công trình này sẽ hoàn thành, bước đầu cung cấp nước sạch cho các xã: An Thới Đông, Bình Khánh, Long Hòa và Cần Thạnh.
 
Theo kế hoạch, đến năm 2015, TP Hồ Chí Minh sẽ đầu tư khoảng 12.200 tỷ đồng để phát triển thêm nguồn và hệ thống truyền dẫn bổ sung. Nguồn nước sạch sẽ có thêm 940.000 m3/ngày từ các nhà máy nước: Kênh Đông; Thủ Đức giai đoạn 3,4; Tân Hiệp 2, đưa tổng công suất phát nước lên 2.721.000 m3/ngày, đáp ứng hơn 92% nhu cầu sử dụng nước của người dân thành phố. Cũng sẽ có thêm gần 1.400 km đường ống truyền dẫn và phân phối được xây dựng cùng với gần 530 km đường ống được cải tạo.
 
Tuy nhiên khó khăn lớn nhất để thực hiện kế hoạch này là vốn. Trong tổng số vốn đầu tư mới này, nguồn vốn ngân sách chỉ chiếm 4%, còn lại phải do doanh nghiệp đầu tư (43%), vốn liên doanh liên kết (30%), vốn vay ODA (19%) và vốn vay tín dụng (4%). Trong khi đó, với giá nước hiện nay, tổng số tiền nước dự kiến thu được từ năm 2011 đến 2015 chỉ đáp ứng được hơn một phần ba số tiền mà Tổng Công ty cấp nước Sài Gòn cần đầu tư. Vì vậy, để kế hoạch phát triển nguồn và hệ thống truyền dẫn nước sạch trở thành hiện thực, Tổng Công ty cấp nước Sài Gòn đang tích cực vận động khách hàng cùng tham gia đầu tư, đồng thời kiến nghị với thành phố cho phép các quận, huyện làm chủ đầu tư các dự án phát triển mạng trên địa bàn của mình và ban hành giá nước mới.
 
Một trong những nhiệm vụ hàng đầu của Tổng Công ty cấp nước Sài Gòn là nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh và chất lượng nước sạch. Đơn vị này đang tích cực áp dụng công nghệ, nguyên vật liệu mới, cải tiến quy trình sản xuất nước như: thay đổi vật liệu lọc từ ba lớp thành hai lớp, có kết hợp với bơm phối khí để nâng công suất lọc nước của Nhà máy nước Thủ Đức; sử dụng PAC hay phèn, tái khoáng hóa, vật liệu lọc... Đồng thời ứng dụng công nghệ thông tin trong vận hành tổng thể mạng lưới, kết hợp GIS và SCADA. Tuy nhiên một số vấn đề mà ngành cấp nước và người dân TP Hồ Chí Minh đang rất quan tâm là làm thế nào để bảo vệ hai con sông Đồng Nai và sông Sài Gòn, nơi cung cấp nguồn nước cho các nhà máy nước khỏi bị ô nhiễm và giải pháp nhằm hạn chế tỷ lệ thất thoát nước. Hiện nay, Tổng Công ty cấp nước Sài Gòn đang tiếp tục triển khai một số dự án giảm thất thoát, thất thu nước do Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) và Chính phủ Hà Lan tài trợ nhưng xem ra rất khó hạ tỷ lệ này xuống dưới 40%.
 
Hy vọng rằng trong những năm tới, người dân TP Hồ Chí Minh không những sẽ có đủ nước sạch mà còn với chất lượng dịch vụ cao, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân.
 


HN-Theo ND
Theo vp.omard.gov.vn

 

 

 
CÁC TIN KHÁC
Giấy lọc buồng sơn là gì? (09/01/2019)
MUA BÁN GIẤY LỌC SƠN Ở ĐÂU? (09/01/2019)
Ưu điểm của lọc hepa (08/01/2019)
Túi lọc bụi polyester tốt nhất cho mọi gia đình (08/01/2019)
Cách để có môi trường trong lành sạch hơn nhờ túi lọc bụi polyester (08/01/2019)
 
 
Đang online : 1
Tổng truy cập : 87872468

 

CÔNG TY TNHH SX TM DV 2G

Số ĐKKD: 0310885786 - Ngày Cấp ĐKKD: 30/05/2011
Đ
ịa chỉ: 155 Ngô Quyền, P.Hiệp Phú, Tp.Thủ Đức, TP.HCM
Tel: 028 66608840       Fax: 028 3 7367236

HOTLINE: 0944 945 339, 0931067020

 
Tư vấn/báo giá Zalo
0931067020
0944945339